I. Cấp tế bào
Tế bào là đơn vị tổ chức cơ bản của sự sống. Tất cả vi khuẩn, nguyên sinh vật, nấm, thực vật cũng như động vật đều cấu tạo từ tế bào. Các hoạt động sống đều diễn ra trong tế bào dù là của cơ thể đơn bào hay đa bào. Tế bào được cấu tạo từ các phân tử, đại phân tử, bào quan, các yếu tố này tạo nên 3 thành phần cấu trúc là: màng sinh chất, tế bào chất và nhân. Các đại phân tử và bào quan chỉ thực hiện được chức năng sống trong mối tương tác lẫn nhau trong tổ chức tế bào toàn vẹn.
1. Các phân tử
Các phân tử có trong tế bào là các chất vô cơ như các muối vô cơ, nước và các chất hữu cơ. Các chất hữu cơ đơn phân tập hợp tạo thành các chất hữu cơ đa phân nhờ phản ứng trùng ngưng.
2. Các đại phân tử
Chủ yếu là prôtêin và axit nuclêic là các chất đa phân (gồm các đơn phân như axit amin, nuclêôtit) có vai trò quyết định sự sống của tế bào nhưng chúng chỉ thực hiện được chức năng của mình trong tổ chức tế bào. Các phân tử và đại phân tử tập hợp lại tạo nên các bào quan.
3. Bào quan
Là cấu trúc gồm các đại phân tử và phức hợp trên phân tử có chức năng nhất định trong tế bào. Ví dụ, ribôxôm gồm rARN và prôtêin, có chức năng là nơi tổng hợp prôtêin.
II. Cấp cơ thể
Cơ thể là cấp tổ chức có cấu tạo từ một đến hàng trăm nghìn tỉ tế bào, tồn tại và thích nghi với những điều kiện nhất định của môi trường. Người ta phân biệt cơ thể đơn bào và cơ thể đa bào.
1. Cơ thể đơn bào
Cơ thể đơn bào chỉ gồm một tế bào nhưng thực hiện đầy đủ chức năng của một cơ thể sống. Ví dụ, con amip tuy chỉ là một tế bào nhưng hoạt động như một cơ thể sống toàn vẹn.
2. Cơ thể đa bào
Khác cơ thể đơn bào ở chỗ chúng cấu tạo gồm rất nhiều tế bào. Ví dụ, cơ thể người có khoảng tế bào. Trong cơ thể đa bào, các tế bào không giống nhau mà chúng phân hoá tạo nên rất nhiều loại mô khác nhau có chức năng khác nhau.
Mô là tập hợp nhiều tế bào cùng loại (và các sản phẩm của tế bào) cũng thực hiện một chức năng nhất định.
Trong cơ thể, nhiều mô khác nhau tập hợp lại thành cơ quan; nhiều cơ quan tập hợp thành một hệ cơ quan, thực hiện một chức năng nhất định của cơ thể.
Cơ thể là một thể thống nhất. Cơ thể tuy gồm nhiều cấp tổ chức như tế bào, mô, cơ quan, hệ cơ quan nhưng hoạt động rất hoà hợp thống nhất nhờ sự điều hoà và điều chỉnh chung, do đó cơ thể có thể thích nghi được với điều kiện sống thay đổi.
* Nếu tế bào cơ tim, mô tim, quả tim, cũng như hệ tuần hoàn bị tách ra khỏi cơ thể chúng có hoạt động sống được không? Tại sao?
III. Cấp quần thể - Loài
Các cá thể thuộc cùng một loài, sống chung với nhau trong một vùng địa lí nhất định tạo nên quần thể sinh vật.
Quần thể được xem là đơn vị sinh sản và tiến hoá của loài. Trong một quần thể chỉ tồn tại những cá thể cùng loài có khả năng giao phối sinh ra con cái hữu thụ.
IV. Cấp quần xã
Quần xã là cấp tổ chức gồm nhiều quần thể thuộc các loài khác nhau cùng chung sống trong một vùng địa lí nhất định. Như vậy, trong tổ chức quần xã có mối tương tác giữa các cá thể (cùng loài hoặc khác loài) và mối tương tác giữa các quần thể khác loài. Ở cấp quần xã, các sinh vật giữ được cân bằng trong mối tương tác lẫn nhau để cùng tồn tại.
V. Cấp hệ sinh thái - Sinh quyển
1. Hệ sinh thái
Sinh vật và môi trường trong đó chúng sống tạo nên một thể thống nhất được gọi là hệ sinh thái. Các sinh vật trong quần xã không chỉ tương tác lẫn nhau mà còn tưoơg tác với môi trường sống của chúng.
2. Sinh quyển
Tập hợp tất cả hệ sinh thái trong khí quyển, thuỷ quyển, địa quyển tạo nên sinh quyển của Trái đất, là cấp tổ chức cao nhất và lớn nhất của hệ sống.
Hệ sống là hệ mở có tổ chức phức tạp theo nhiều cấp tương tác với nhau và tương tác với môi trường sống. Người ta thường phân biệt các cấp tổ chức chính thể hiện sự sống như: tế bào, cơ thể, quần thể - loài, quần xã, hệ sinh thái – sinh quyển.
Tế bào được xem là cấp tổ chức cơ bản, sinh quyển được xem là cấp tổ chức cao nhất và lớn nhất của hệ sống.
Hệ sống là hệ thống nhất tự điều chỉnh, thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa cấu trúc với chức năng, giữa hệ với môi trường sống và hệ luôn tiến hoá.
DÂN KHỐI B VÀO ĐÂY NHA(CÁC CẤP TỔ CHỨC CỦA GIỚI SỐNG)
traunuochamchoi- QUẢN TRỊ VIÊN
- Tổng số bài gửi : 76
Age : 33
Registration date : 12/05/2007
traunuochamchoi- QUẢN TRỊ VIÊN
- Tổng số bài gửi : 76
Age : 33
Registration date : 12/05/2007
1. Khái niệm về giới sinh
vật
Giới (Regnum) được xem như đơn vị phân
loại lớn nhất, bao gồm những sinh vật có
chung những đặc điểm nhất định.
Có bao nhiêu giới sinh vật? Đó là câu hỏi khó
trả lời chính xác. Vào thế kỉ XVIII ông tổ
của ngành phân loại học Cac Linê chia tất cả
sinh vật thành 2 giới là: giới Thực vật và
Động vật.
Giới Thực vật bao gồm những sinh vật mà
tế bào của chúng có thành xenlulôzơ, sống tự dưỡng
quang hợp, sống cố định.
Giới Động vật bao gồm những sinh vật
mà tế bào của chúng không có thành xenlulôzơ, sống
dị dưỡng, có đời sống di chuyển. Đến
thể kí XIX, vi sinh vật như vi khuẩn, vi nấm,
tảo được xếp vào giới Thực vật, còn
động vật nguyên sinh được xếp vào
giới Động vật.
2. Hệ thống 5 giới sinh vật
Đến thế kỉ XX Oaitâykơ (Whittaker) và Magulis (Margulis)
đề nghị xếp các sinh vật vào 5 giới là
giới Khởi sinh (Monera) gồm vi khuẩn; giới Nguyên
sinh (Protista) gồm động vật nguyên sinh (còn gọi
là động vật đơn bào), tảo và nấm
nhầy; giới Nấm (Fungi), giới Thực vật (Plantae)
và giới Động vật (Animalia).
Sự phân chia sinh vật thành 5 giới là tương
đối hợp lí và được công nhận
rộng rãi trong thời gian dài
II. Các bậc phân loại trong
mỗi giới
Các giới sinh vật là vô cùng đa dạng. Để
nghiên cứu chúng, các nhà khoa học phải dựa vào các
tiêu chí về cấu tạo, dinh dưỡng, sinh sản…
để sắp xếp chúng vào bậc phân loại và
đặt tên.
1. Sắp xếp theo bậc phân loại từ
thấp đến cao
Loài – chi (giống) - họ - bộ - lớp – ngành -
giới. Bất kì một sinh vật nào cũng đều
được sắp xếp vào một loài nhất định.
Nhiều loài thân thuộc tập hợp thành một chi,
nhiều chi thân thuộc tập hợp thành một họ,
nhiều họ thân thuộc tập hợp thành một
bộ, nhiều bộ thân thuộc tập hợp thành
một lớp, nhiều lớp thân thuộc tập hợp
thành một ngành, nhiều ngành thân thuộc tập
hợp thành một giới.
2. Đặt tên loài theo nguyên tắc dùng tên kép (theo
tiếng Latinh)
Tên thứ nhất là tên chi (viết hoa), tên thứ hai là
tên loài (viết thường). Ví dụ, loài người
được đặt tên là Homo sapiens.
III. Đa
dạng sinh vật
Đa dạng sinh vật thể hiện rõ nhất là đa
dạng loài. Hiện nay, người ta đã thống kê,
mô tả được khoảng 1,8 triệu loài, trong
đó có khoảng 100 nghìn loài nấm, 290 nghìn loài
thực vật và trên 1 triệu loài động vật (theo
N.A. Campbell và J.B. Reece. 2005). Càng ngày, các nhà phân loại
học càng phát hiện thêm nhiều loài mới và người
ta ước tính có thể có đến 30 triệu loài
sống trong sinh quyển. Riêng ở Việt
Nam
, trong 10 năm gần đây các nhà sinh học đã phát
hiện ra hàng chục loài mới.
Ngoài ra, đa dạng sinh vật còn thể
hiện ở đa dạng quần xã và đa dạng
hệ sinh thái. Mỗi một quần xã, một hệ sinh
thái có đặc thù riêng trong quan hệ nội bộ sinh
vật và quan hệ với môi trường. Loài, quần
xã, hệ sinh thái luôn biến đổi nhưng luôn
giữ là hệ cân bằng tạo nên sự cân bằng
trong toàn bộ sinh quyển.
Do con người khai thác quá mức, không có kế
hoạch các nguồn tài nguyên sinh vật phục vụ cho
sản xuất và đời sống, nên đã làm cạn
kiệt tài nguyên sinh vật, mất cân bằng sinh thái và
giảm độ đa dạng sinh vật.
Ô nhiễm môi trường làm tổn hại đến
nguồn thức ăn, nơi ở cũng như điều
kiện sinh sống của sinh vật, là một trong
những nguyên nhân dẫn đến tuyệt diệt
của nhiều loài, nhiều quần xã và hệ sinh thái.
* Chúng ta đã làm gì khiến cho sự đa
dạng sinh vật ở Việt Nam giảm sút, độ
ô nhiễm môi trường tăng cao, gây ảnh hưởng
xấu đến sản xuất và đời sống như
thế nào?
Thế giới sống được phân chia
thành 5 giới là: giới Khởi sinh gồm các sinh
vật nhân sơ, đơn bào, sống tự dưỡng,
dị dưỡng; giới Nguyên sinh gồm các sinh vật
nhân thực, đơn bào hoặc đa bào đơn
giản, sống dị dưỡng hoặc tự dưỡng
quang hợp; giới Nấm gồm các sinh vật nhân
thực, đơn bào, đa bào, sống dị dưỡng
hoại sinh; giới Thực vật gồm các sinh vật
nhân thực, đa bào, sống tự dưỡng quang
hợp; giới Động vật gồm các sinh vật nhân
thực, đa bào, sống dị dưỡng.
Các sinh vật được sắp xếp vào bậc phân
loại từ thấp đến cao: loài – chi (giống) -
họ - bộ - lớp – ngành - giới. Loài là bậc phân
loại thấp nhất. Giới là bậc phân loại cao
nhất. Loài được đặt tên theo hệ
thống tên kép theo tiếng Latinh viết nghiêng. Ví dụ
loài người có tên là Homo sapiens.
traunuochamchoi- QUẢN TRỊ VIÊN
- Tổng số bài gửi : 76
Age : 33
Registration date : 12/05/2007
I. Giới
khởi sinh (monera)
Thuộc giới
Khởi sinh có vi khuẩn là những sinh vật bé
nhỏ có kích thước hiển vi (từ 1 - 3μm)
cấu tạo bởi tế
bào nhân sơ, là những sinh vật cổ sơ
nhất xuất hiện khoảng 3,5 tỉ năm trước
đây. Chúng sống khắp nơi, trong đất, nước,
không khí; phương thức dinh dưỡng rất đa
dạng: hoá tự dưỡng, quang tự dưỡng, hoá
dị dưỡng và quang dị dưỡng. Nhiều vi
khuẩn sống kí sinh trong các cơ thể khác. Vi
khuẩn lam có chứa nhiều sắc tố quang
hợp trong đó có clorophyl (chất diệp lục) nên
có khả năng tự dưỡng quang
hợp như thực vật.
Gần đây, người ta tách khỏi vi khuẩn
một nhóm là Vi
sinh vật cổ (Archaea) có nhiều đặc điểm
khác biệt với vi khuẩn về cấu tạo của
thành tế
bào, tổ chức bộ gen. Chúng có khả năng
sống trong những điều kiện môi trường
rất khắc nghiệt về nhiệt độ (từ
cho đến
và độ muối rất cao (20 – 25%). Về mặt
tiến hoá, chúng tách thành một nhóm riêng và đứng
gần với sinh vật nhân thực hơn là vi khuẩn.
II. Giới
nguyên sinh (protista)
Giới
Nguyên sinh gồm các sinh vật nhân thực, đơn bào
hoặc đa bào, rất đa dạng về cấu
tạo cũng như về phương thức dinh dưỡng.
Tuỳ theo phương thức dinh dưỡng người
ta chia chúng thành: động
vật nguyên sinh (Protozoa),
Thực
vật nguyên sinh (hay là Tảo – Algae)
và Nấm
nhầy (Myxomycota).
III. Giới
nấm
Nấm
là sinh vật thuộc dạng tế
bào nhân thực. Cơ thể có thể là đơn bào
hoặc đa bào dạng sợi, có thành kitin (trừ
một số ít có thành xenlulôzơ), không có lục
lạp. Sống dị dưỡng hoại sinh, kí sinh,
cộng sinh (địa y). Sinh
sản chủ yếu bằng bào tử không có lông và
roi.
Các dạng nấm
điển hình bao gồm nấm
men, nấm
sợi, chúng khác nhau về nhiều đặc điểm.
Ngoài ra, người ta còn ghép địa y (là cơ
thể cộng sinh giữa nấm
với tảo hoặc vi khuẩn lan) vào giới
Nấm.
IV. Các nhóm vi
sinh vật
Do tính chất lịch sử và để tiện việc
nghiên cứu, người ta thường xếp các sinh
vật nhỏ bé có kích thước hiển vi vào một
nhóm được gọi là nhóm
Vi sinh vật. Chúng có một số đặc điểm
chung như có kích thước hiển vi, sinh trưởng
nhanh, phân bố rộng, thích ứng cao với môi trường.
Thuộc nhóm
Vi sinh vật có vi khuẩn (thuộc giới
Khởi sinh), động
vật nguyên sinh và tảo đơn bào (thuộc giới
Nguyên sinh) và nấm
men (thuộc giới
Nấm). Người ta còn xếp virut vào nhóm
Vi sinh vật, mặc dù hiện nay virut không được
xem là cơ thể sống vì chúng không có cấu tạo tế
bào và chúng chỉ sống khi kí sinh trong tế
bào vật chủ. Virut không tồn tại và sống
trong môi trường thiên nhiên khi ở ngoài tế
bào.
Vi
sinh vật có vai trò quan trọng đối với hệ
sinh thái cũng như đối với đời
sống con người.
Giới
Khởi sinh có vi khuẩn là những sinh vật nhân sơ
đơn bào sống tự dưỡng hoặc dị dưỡng.
Giới
Nguyên sinh gồm các sinh vật nhân thực rất đa
dạng, đó là các sinh vật đơn bào sống
dị dưỡng như động
vật nguyên sinh, đơn bào hoặc đa bào
sống tự dưỡng quang
hợp như tảo và sống dị dưỡng
hoại sinh như nấm
nhầy.
Giới
Nấm có các sinh vật nhân thực, đa bào, sống
dị dưỡng hoại sinh như nấm
men, nấm
sợi.
Nhóm
Vi sinh vật có các sinh vật thuộc ba giới kể
trên nhưng có chung đặc điểm là có kích thước
hiển vi, sinh trưởng nhanh, phân bố rộng, thích
ứng cao với môi trường như vi khuẩn, động
vật nguyên sinh, vi tảo và vi nấm.
Nhóm
Vi sinh vật còn có virut. Vi
sinh vật cũng như virut có vai trò quan trọng đối
với sinh
quyển, đối với cây trồng, vật nuôi và
con người.
traunuochamchoi- QUẢN TRỊ VIÊN
- Tổng số bài gửi : 76
Age : 33
Registration date : 12/05/2007
I. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA GIỚI
THỰC VẬT
1. Đặc điểm về cấu
tạo
Giới
Thực vật gồm những sinh vật nhân thực,
đa bào. Cơ thể của chúng gồm nhiều tế
bào được phân hoá thành nhiều mô và cơ quan
khác nhau. Tế
bào thực vật có thành xenlulôzơ, nhiều tế
bào chứa lục lạp.
2. Đặc điểm về dinh dưỡng
Đa số tế
bào thực vật, đặc biệt là tế
bào lá có nhiều lục lạp chứa sắc tố
clorophyl nên có khả năng tự dưỡng nhờ quá
trình quang
hợp. Thực vật sử dụng năng lượng
ánh sáng để tổng hợp nên chất hữu cơ
từ các chất vô cơ, cung cấp nguồn dinh dưỡng
cho các sinh vật khác.
Thực vật thường có đời sống cố
định và tế
bào có thành xenlulôzơ nên thân cành cứng chắc, vươn
cao toả rộng tán lá, nhờ đó hấp thu được
nhiều ánh sáng cần cho quang
hợp.
* Nêu đặc điểm thực vật thích
nghi đời sống trên cạn mà em biết?
Đa số thực vật ở cạn nên có nhiều
đặc điểm thích nghi với đời sống
ở cạn (một số thực vật thuỷ sinh
sống ở nước có một số đặc điểm
thích nghi với môi trường nước là hiện tượng
thứ sinh):
- Lớp cutin phủ bên ngoài lá có tác dụng chống
mất nước, nhưng biểu bì lá có chứa khí
khổng để trao đổi khí và thoát hơi nước.
- Phát triển hệ mạch dẫn để dẫn
truyền nước, chất vô cơ và chất hữu cơ.
- Thụ phấn nhờ gió, nước và côn trùng.
Thụ tinh kép tạo hợp tử và tạo nội nhũ
để nuôi phôi phát triển.
- Sự tạo thành hạt và quả để bảo
vệ, nuôi phôi, phát tán và duy trì sự tiếp nối
thế hệ.
II. CÁC NGÀNH THỰC VẬT
Thực vật có nguồn gốc từ một loài
tảo lục đa bào nguyên thuỷ. Thực vật
rất đa dạng, phân bố khắp nơi trên Trái
Đất, tuỳ theo mức độ tiến hoá trong
cấu trúc cơ thể cũng như các đặc điểm
thích nghi với đời sống ở cạn mà giới
Thực vật được chia thành các ngành là Rêu,
Quyết, Hạt trần, Hạt kín
III. ĐA DẠNG GIỚI THỰC VẬT
Giới
Thực vật rất đa dạng về loài,
về cấu tạo cơ thể và về hoạt động
sống thích nghi với các môi trường sống khác
nhau. Hiện nay, đã thống kê và mô tả khoảng 290
nghìn loài
thực vật thuộc các ngành Rêu, Quyết, Hạt
trần và Hạt kín.
Thực vật có vai trò quan trọng đối với
tự nhiên và đời sống con người.
Giới
Thực vật gồm những sinh vật nhân thực,
đa bào. Thực vật có lục lạp chứa sắc
tố quang
hợp (clorophyl) nên có khả năng tự dưỡng
quang
hợp. Thành tế
bào thực vật được cấu tạo bởi
xenlulôzơ. Thực vật thường sống cố
định.
Giới
Thực vật có nguồn gốc từ tảo lục
đa bào nguyên thuỷ và đã tiến hoá theo hướng
xâm chiếm các sinh cảnh ở cạn (các thực
vật thuỷ sinh là hiện tượng thứ sinh). Giới
Thực vật được chia thành 4 ngành chính là Rêu,
Quyết, Hạt trần, Hạt kín.
Thực vật rất đa dạng về cá thể,
về loài,
về vùng phân bố và có vai trò quan trọng đối
với tự nhiên và đời sống con người.
traunuochamchoi- QUẢN TRỊ VIÊN
- Tổng số bài gửi : 76
Age : 33
Registration date : 12/05/2007
1. Đặc điểm về cấu tạo
Giới Động vật gồm những sinh vật nhân thực, đa bào, cơ thể gồm nhiều tế bào phân hoá thành các mô, các cơ quan và hệ cơ quan khác nhau. Đặc biệt là động vật có hệ cơ quan vận động và hệ thần kinh.
2. Đặc điểm về dinh dưỡng và lối sống
Động vật không có khả năng quang hợp, chúng sống dị dưỡng nhờ chất hữu cơ sẵn có của các cơ thể khác. Động vật có hệ cơ, di chuyển tích cực để tìm kiếm thức ăn. Động vật có hệ thần kinh phát triển (nhất là đối với các động vật bậc cao) nên chúng có khả năng phản ứng nhanh, điều chỉnh hoạt động của cơ thể, thích ứng cao với biến đổi của môi trường sống.
* Hãy nêu các đặc điểm về cấu tạo và lối sống của động vật khác biệt với thực vật?
II. CÁC NGÀNH CỦA GIỚI ĐỘNG VẬT
Giới Động vật có nguồn gốc từ tập đoàn đơn bào dạng trùng roi nguyên thuỷ. Giới Động vật đạt mức độ tiến hoá cao nhất trong thế giới sinh vật, phân bố khắp nơi và rất đa dạng về cá thể và loài. Trong tổng số khoảng 1,8 triệu loài sinh vật được thống kê hiện nay thì động vật đã chiếm trên một triệu loài. Nhiều loài động vật có số lượng cá thể rất lớn, ví dụ loài người có trên 6 tỉ cá thể. Có những đàn châu chấu, đàn kiến đông đến hàng chục tỉ con.
Động vật được chia thành hai nhóm chủ yếu là động vật không xương sống (gồm các ngành: Thân lỗ, Ruột khoang, Giun dẹp, Giun tròn, Giun đốt, Thân mềm, Chân khớp và Da gai) và động vật có xương sống (động vật có dây sống chỉ có một ngành được phân chia thành các lớp: Nửa dây sống, Cá miệng tròn, Cá sụn, Cá xương, Lưỡng cư, Bò sát, Chim, Thú).
III. ĐA DẠNG GIỚI ĐỘNG VẬT
Giới động vật rất đa dạng về loài, về cấu tạo cơ thể về hoạt động sống thích nghi với các môi trường sống khác nhau. Hiện nay đã thống kê, mô tả trên một triệu loài động vật.
Giới Động vật có vai trò quan trọng đối với tự nhiên và đời sống con người.
Giới Động vật bao gồm các sinh vật nhân thực, đa bào, cơ thể có nhiều hệ cơ quan phức tạp như hệ cơ, hệ thần kinh. Động vật sống dị dưỡng, có khả năng di chuyển và phản ứng nhanh, thích ứng cao với môi trường.
Giới Động vật có nguồn gốc chung từ tập đoàn trùng roi nguyên thuỷ và tiến hoá theo hướng ngày càng phức tạp về cấu tạo và chuyên hoá về chức năng, cũng như thích nghi cao với môi trường.
Giới Động vật được phân chia thành 2 nhóm chính là động vật không xương sống và động vật có xương sống.
Động vật rất phong phú và đa dạng về cá thể, về loài và có vai trò quan trọng đối với tự nhiên cũng như đời sống con người.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Nêu các đặc điểm của giới Động vật.
2. Động vật khác với thực vật ở những đặc điểm nào?
3. Nêu các đặc điểm khác biệt giữa nhóm động vật không xương sống và có xương sống.
4. Nêu các lí do phải bảo tồn các động vật quý hiếm.
EM CÓ BIẾT
ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VIỆT NAM
Việt Nam là một trong các nước có tài nguyên thiên nhiên rất phong phú và độ đa dạng sinh học cao. Rừng bao phủ gần 50% diện tích với hệ thực vật rất đa dạng và phong phú, vì vậy kéo theo hệ động vật và vi sinh vật cũng rất phong phú. Theo ước tính sơ bộ của các nhà nghiên cứu, ở Việt Nam có ít nhất 15.000 loài thực vật thuộc trên 2500 chi và 378 họ khác nhau, trong đó có khoảng 2300 loài có ý nghĩa kinh tế cao được dùng làm nguồn lương thực, thực phẩm, làm thuốc chữa bệnh, thức ăn cho gia súc gia cầm, làm vật liệu xây dựng cũng như nguyên liệu cho các ngành công nghiệp như công nghiệp giấy, công nghiệp dệt… Riêng họ Phong lan (Orchidaceae) đã có tới 800 loài, họ Đậu (Fabaceae) có tới 470 loài, họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) có tới 425 loài, họ Lúa (Poaceae) có tới 400 loài, họ Cà phê (Rubiaceae) có tới 400 loài. Nhiều loài thuộc loại quý hiếm, nhiều chi thuộc loại đặc hữu (chỉ đặc trưng cho Việt Nam và vùng Đông Nam Châu Ánh sáng) cần được bảo vệ. Nhiều loài phong lan đẹp và quý là nguồn cây hoa có giá trị xuất khẩu cao, những cây gỗ rất quý như mun, trắc, gụ, lim, táu, pơmu…, cây dược liệu được liệt vào dược liệu quý như nhân sâm… Hệ động vật cũng rất phong phú và đa dạng cả về loài quý hiếm và loài đặc hữu. Theo nghiên cứu sơ bộ có khoảng 7000 loài côn trùng, 2600 loài cá, gần 1000 loài chim, 275 loài thú và 260 loài bò sát. Chỉ tính riêng lớp Thú đã thống kê được trên 10 loài quý hiếm và 18 loài đặc hữu (voọc, cu li lùn, sao la, mang lớn, bò rừng…). Chim ở Việt Nam cũng rất phong phú, khoảng trên 1000 loài, trong đó có rất nhiều loài quý hiếm và đặc hữu như các loài gà lôi, trĩ, sếu…
Do sự phá rừng, săn bắt mà nhiều loài thực vật cũng như động vật quý hiếm và đặc hữu đang bị đe doạ tuyệt diệt như các loài gỗ quý, các loài động vật quý thuộc tầm cỡ quốc tế như bò rừng, tê giác, voi, vượn, voọc, gà lôi, trĩ, sễu. Tài nguyên thiên nhiên là nguồn tài sản vô giá của đất nước cần được bảo vệ và khai thác hợp lí. Đó không chỉ là nhiệm vụ của các nhà khoa học, của chính phủ mà còn là nghĩa vụ của mỗi người dân chúng ta.
|
|